Mình thuê ở đây từ lúc còn sinh viên đến khi ra làm công ty, mỗi khi có biểu diễn văn nghệ cần trang phục đều gọi bên đây ngay. Hoàn toàn an tâm tin tưởng vào chuyên môn và sự tận tâm, nhiệt tình của anh Bờm. Chất lượng đồ thì ko cần nói nữa rồi. 100 điểm!
Mình thuê ở đây từ lúc còn sinh viên đến khi ra làm công ty, mỗi khi có biểu diễn văn nghệ cần trang phục đều gọi bên đây ngay. Hoàn toàn an tâm tin tưởng vào chuyên môn và sự tận tâm, nhiệt tình của anh Bờm. Chất lượng đồ thì ko cần nói nữa rồi. 100 điểm!
Phụ kiện Khăn rằn: 10,000 Mũ tai bèo: 15,000 Dép râu: 30,000 Giày bộ đội: 50,000 Thắt lưng: 15,000 Balo: 50,000
Phụ kiện Khăn rằn: 20,000 Mũ tai bèo: 45,000 Dép râu: 50,000 Giày bộ đội: 180,000 Thắt lưng: 45,000 Balo: 160,000
LƯU Ý: Thời gian làm việc các chi nhánh khác nhau. Quý khách vui lòng xem kỹ
11 Võ Trường Toản, Phường 2, Quận Bình Thạnh, TPHCM
759/3A Hương Lộ 2, phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân, TPHCM
Xóm 14, Xã Đồng Hướng, Huyện Kim Sơn
Xóm 13, Xã Khánh Thành, Huyện Yên Khánh
Số 57, ngõ 70 Phạm Văn Nghị, Phường Đông Thành, Thành phố Ninh Bình
Đường 10, thôn Vân Tiến, Xã Khánh Vân, Huyện Yên Khánh
Số 183, Tổ 7, Phường Tây Sơn, Thành phố Tam Điệp
Xóm 6, Xã Tân Thành, Huyện Kim Sơn
Xóm An Cư, Xã Văn Hải, Huyện Kim Sơn
SN 977, đường Nguyễn Công Trứ, Thôn Vườn Hoa, Xã Ninh Phúc, Thành phố Ninh Bình
Thôn Quan Đồng, Xã Ninh Mỹ, Huyện Hoa Lư
Thôn Tân Trung, Xã Quang Sơn, Thành phố Tam Điệp
Số 10, Ngõ 170, đường Nguyễn Viết Xuân, phố Đông Sơn, Phường Bích Đào, Thành phố Ninh Bình
Xóm Long An, Xã Gia Lập, Huyện Gia Viễn
Thôn Áng Sơn, Xã Ninh Hòa, Huyện Hoa Lư
Số nhà 14, ngõ 297, đường Bích Đào, phố Đông Xuân, Phường Bích Đào, Thành phố Ninh Bình
SN 90 đường Hùng Vương 2, Phố Lê Lợi, Phường Nam Bình, Thành phố Ninh Bình
Xóm 9, Xã Khánh Nhạc, Huyện Yên Khánh
Số 109, Đường Nguyễn Huệ, Phường Nam Bình, Thành phố Ninh Bình
Khu Phố Mới, Thị Trấn Me, Huyện Gia Viễn
Xóm trung B Nhuận Hải, Xã Khánh Hải, Huyện Yên Khánh
Phố Thống Nhất, Thị Trấn Me, Huyện Gia Viễn
Đường 12C, Xã Ninh Hòa, Huyện Hoa Lư
Thửa đất số 115, tờ bản đồ số 03, Bản đồ địa chính xã Sơn Hà, Xã Sơn Hà, Huyện Nho quan
Xóm 6, Xã Kim Chính, Huyện Kim Sơn
Xóm 1, Xã Hùng Tiến, Huyện Kim Sơn
Xóm 8, Xã Khánh Hồng, Huyện Yên Khánh
Ngõ 125 đường Đô Thiên, KDT Xuân Thành, phố Vinh Quang, Phường Ninh Khánh, Thành phố Ninh Bình
24 Lương Văn Tụy, Phường Tân Thành, Thành phố Ninh Bình
Số nhà 16 Khu phố 1b, Thị Trấn Yên Ninh, Huyện Yên Khánh
Thôn Lải, Xã Thạch Bình, Huyện Nho quan
Số nhà 32, Đường Đinh Tất Miễn, Phố Phong Lạc, Thị Trấn Nho Quan, Huyện Nho quan
Thôn Me, Xã Sơn Lai, Huyện Nho quan
Xóm 4, Xã Ân Hòa, Huyện Kim Sơn
Đường 10, Xã Khánh An, Huyện Yên Khánh
Số nhà 2 đường Vân Giang, Phường Vân Giang, Thành phố Ninh Bình
Xóm Dầu, Xã Yên Thái, Huyện Yên Mô
Xóm 10A, Xã Khánh Nhạc, Huyện Yên Khánh
Số nhà 106, Đường Vũ Phạm Khải, Thị Trấn Yên Thịnh, Huyện Yên Mô
thôn Yên Cư 2, Xã Khánh Cư, Huyện Yên Khánh
Khu 2, Thị Trấn Yên Thịnh, Huyện Yên Mô
Số nhà 538 Phạm Thận Duật, Thị Trấn Yên Thịnh, Huyện Yên Mô
Đội 7, Xã Mai Sơn, Huyện Yên Mô
Số 133, đường Phạm Cự Lượng, phố 2, Thị Trấn Yên Ninh, Huyện Yên Khánh
Số nhà 14, ngõ 42 đường Vân Giang, Phường Vân Giang, Thành phố Ninh Bình
Thôn Lạng Uyển, Xã Đồng Phong, Huyện Nho quan
Xóm 13, Xã Quang Thiện, Huyện Kim Sơn
Thôn Lãng Ngoại, Xã Gia Lập, Huyện Gia Viễn
Ngõ 338, Phố Phong Sơn, Phường Nam Bình, Thành phố Ninh Bình
Số nhà 103, đường Đinh Tiên Hoàng, Phường Đông Thành, Thành phố Ninh Bình
Xóm 3, Xã Kim Mỹ, Huyện Kim Sơn
Thôn Tam Đồng, Xã Lạng Phong, Huyện Nho quan
Trang phục bộ đội nữ được công ty may Phúc Khang sản xuất và cung cấp trên cả Nước với rất nhiều kiểu dáng trang nhã Trang phục bộ đội nữ được công ty chúng tôi sản xuất trên dây truyền hiện đại cùng đội ngũ thợ may lành nghề. Các sản phẩm trang phục bộ đội nữ thường được sử dụng chất liệu vải kaki bền đẹp, và thường có hai màu xanh lá đậm và xanh lá non. Ở đây trang phục bộ đội nữ được may theo kiểu dáng nam để các bà, các cô, các chị có thể hóa thân thành những anh lính cụ Hồ kiên cường, dũng cảm, thông minh, đa trí. Bộ trang phục với hai túi vuông vắn được may trước ngực kết hợp với dáng quần ống suôn đầy uy nghiêm. Bộ trang phục sử dụng gam màu xanh tươi trẻ để tăng nên độ sáng cho bộ áo Ở đây, bộ trang phục sử dụng chất liệu vải thô dầy dặn, cứng cáp. Ngoài chất đó, chúng tôi còn sử dụng chất liệu vải chéo và vải kaki để Quý khách có thêm nhiều sự lựa chọn hơn Chi tiết liên hệ đặt may trang phục bộ đội tại công ty may Phúc Khang Email:[email protected] Website:http://trangphucdien.vn/
Cảm ơn quý khách hàng đã tin tưởng lựa chọn công ty may Trang phục biểu diễn Phúc Khang để đặt may: Quý khách vui lòng lựa chọn những mã sản phẩm cần may, số lượng cần may và thông báo lại cho bên công ty. Công ty may
luôn sãn sàng tư vẫn hỗ trợ để quý khách có được những sản phẩm đẹp nhất chất lượng nhất và phù hợp nhất. Những mặt hàng sản xuất chính của công ty may Phúc Khang:
- Áo cử nhân cấp 1,2,3 - Áo cử nhân sinh viên - Lễ phục tốt nghiệp - Áo thạc sĩ, tiến sĩ
Sau khi lựa chọn được các sản phẩm phù hợp nhất cho mình quý khác có thể "Chat" trựctiếp với nhân viên oline Hoặc thông báo qua điện thoại,zalo,facebook,viber qua số điện thoai 0979953301 Mr Son Để được hướng dẫn mua hàng nhanh nhất thuật tiện nhất
Hà Nội : Số 68 Ngõ 1277 Giải Phóng – Hoàng Mai- Hà Nội Xưởng 2: Số 1 Cổ Chất -Dũng Tiến- Thường Tín- Hà Nội Sài Gòn:18D Đường Cộng Hòa – P.4- Q. Tân Bình – TP.Hồ Chí Minh Hotline : 0981 311 555 – 0979 953 301 Email : [email protected] Website:
Trang phục miền Bắc thời cận đại
(Đông Kinh nhân) - đồ quyển Thế giới nhân vật (世界人物圖卷)
Y phục truyền thống Việt Nam (còn gọi Việt Nam phục sức) bao gồm các loại y phục của người Việt và y phục cung đình.
Một số quan điểm khác[ai nói?] tổng quát các dân tộc đã sống trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay từ lâu đời, chẳng hạn như người Chăm-pa, người Khmer và các dân tộc thiểu số khác.
Trước thời Bắc thuộc, có sách ghi người Việt mặc áo cài bên trái,[1]. Kể từ thời tự chủ thế kỷ thứ 10 trở đi thì áo người Việt đại thể có ba loại căn cứ theo cách cắt cổ áo:[2]
Đàn bà còn dùng yếm một mảnh vải vuông che phần ngực, một góc cắt lẹm đi rồi đính hai dải vải buộc vào sau gáy. Hai góc trái và phải cũng đính hai dải vải, gọi là dải yếm, dài đủ để quành ra sau lưng rồi buộc lại ở trước ngực. Khi ở nhà làm lụng, người đàn bà có khi chỉ mặc yếm.[4] Khi ra ngoài giao tiếp mới mặc thêm áo.
Ở phía dưới bụng thì ngày xưa đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy. Khố là mảnh vải hẹp mà dài. Người mặc quấn quanh bụng vài vòng rồi chèn từ phía trước bẹn ra sau cài chặt lại. Tích Chử Đồng Tử từ thời Hùng Vương đã nhắc tới việc trang phục dùng khố. Tuy nhiên, khẳng định này vẫn còn tranh cãi.[cần dẫn nguồn]
Người Việt mặc loại áo dài cổ tròn (viên lĩnh) 4 vạt, gọi là áo "tứ điên"; dưới thì vận thường đen. Đàn ông đàn bà đều có thể mặc vậy. Ngoài ra, còn có các kiểu khác như: áo giao lĩnh (cổ chéo) ở trên, dưới quây thường bên
ngoài hay mặc váy bên trong (với nữ) hoặc mặc áo giao lĩnh hay viên lĩnh trên mặc quần hay khố (với nam). Áo may dài quá đầu gối, cài khuy với áo viên lĩnh, buộc vạt bên phải với áo giao lĩnh. Sứ giả Triệu Nhữ Thích bình rằng lối ăn mặc người Việt thời bấy giờ (1125) không khác người Tống là mấy.[5] Nam đầu đội mũ đinh tự, nhìn như con ốc. Cả nam và nữ, quý tộc và thường dân đều đi đất và nhuộm răng đen.
Áo trực lĩnh phổ biến, dùng làm thường phục trong dân gian (mặc lót trong là 1 viên lĩnh đơn y hoặc yếm). Màu sắc áo cũng đã thành lệ: đàn ông thường dùng áo màu xanh, khi có việc trọng đại thì dùng màu đen, màu thẫm. Người làm ruộng thì dùng màu nâu. Bông vải là hàng chính. Chỉ người sang trọng mới dùng hàng tơ lụa. Quần thì chỉ có hai màu trắng và nâu. Họa hoằn những người giàu có hay già cả mới dùng quần màu đỏ.
Căn cứ theo minh họa trong sách Vạn quốc nhân vật chi đồ (1645) của Nhật Bản thì vẽ người đàn bà đội nón dâu (rộng), tóc dài, mặc váy ở dưới, phía trên mặc áo trực lĩnh, mặc yếm trong. Đàn ông thì búi tóc, mặc một loại rông cài bên phải.
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh thế kỷ 18, chúa Nguyễn Võ Vương ở Đàng Trong có sắc quy định y phục trong Nam, nhất là lối ăn mặc của phụ nữ, bỏ váy mà mặc quần, còn áo thì cài khuy, bỏ lối thắt vạt.[1] Đàng Ngoài thuộc chúa Trịnh thì vẫn giữ áo tứ thân buộc vạt. Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng là "Áo tứ thân" có thể đã ra đời từ thế kỷ 12. Áo tứ thân hình dạng tương đồng với áo Bối Tử thời Tống[6].
Trong tác phẩm Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú ghi nhận: "Từ thời Lê Trung Hưng về sau, các lễ lớn như vua lên ngôi, tiến tôn và ban chiếu, đều đội mũ Xung Thiên, mặc Hoàng Bào,..." [3].
Áo thời Lê không được ghi chép rõ về hoa văn, hiện vật duy nhất của Hoàng Bào thời Lê là từ áo bồi táng của vua Lê Dụ Tông thời Lê Trung Hưng, nhưng hoa văn rồng trên áo này đã theo kiểu "long vân đại hội", một dạng hoa văn rất phổ biến thời Minh mạt. Lúc này, đồ án rồng rất to trước ngực và sau lưng, ở trên vai là hình đồ án rồng tương tự nhưng kích thước nhỏ hơn, khắp xung quanh áo là hình mây cùng ngọn lửa. Có thể thấy, cục diện hoa văn này đã xa thời Minh sơ mà rất gần với thời Minh mạt, cho nên hoa văn cách thức của áo Bào Lê Dụ Tông chỉ biểu thị một giai đoạn Lê Trung Hưng, còn thời Lê Sơ có lẽ vẫn theo kiểu hình Đoàn Long.[3]
Thời Nguyễn thì nam giới cả hai miền Nam Bắc đã quen mặc áo ngũ thân (áo lập lĩnh may bằng năm khổ vải), thân áo dài quá đầu gối, tay áo hẹp. Đàn bà từ Hoành Sơn vào Nam cũng mặc áo ngũ thân nhưng khác áo đàn ông chút ít với thân áo may dài hơn; gấu áo dài quá bắp chân,[2] dưới hạ y mặc quần. Đàn bà từ Hà Tĩnh trở ra vẫn mặc áo tứ thân (giản lược về màu sắc) và mặc váy.
Lễ phục thì vẫn còn dùng áo giao lĩnh, nhưng khoác ra bên ngoài cùng khi hành lễ, gọi là áo thụng hay bổ phục[2]
Áo Nhật bình (xẻ trước ngực) với tay áo rộng là lễ phục khoác ra ngoài của nữ giới quyền quý trong chốn cung đình.[2] Các thiếu nữ trong gia đinh quý tộc khi xuất giá cũng được mặc áo nhật bình nhưng các hoa văn giản lược hơn.
Áo viên lĩnh được sử dụng làm triều phục các quan từ Lục phẩm trở lên.
Về màu sắc thì người dân quê làm ruộng, quần áo hay nhuộm màu nâu hay đen, chỉ những khi nhàn nhã mới mặc màu bạch hay màu tươi như yếm màu hồng, màu đào.[7] Đàn ông mặc quần lá tọa. Quần này may sâu đũng để có thể kéo cạp quần lên cao hay xuống thấp để cho ống quần dài hay ngắn tùy ý; cạp quần buông loà xòa, buộc bằng thắt lưng ở bụng.
•Thời Lý, Trần thì tóc ngắn, đầu trần. Đàn bà để tóc dài hơn đàn ông độ 1 tấc [6].Đàn ông dùng khăn quấn đỉnh đầu kín, không lộ tóc
•Thời Lê: khi đối diện người có địa vị cao hơn thì để tóc dài chuốt sáp gọn ra sau lưng.Mọi người chỉ búi tóc chuy kế khi làm điền, làm việc nặng, hoặc đi sứ
Thúc phát của nữ giới xuất giá sẽ 2 kết (tạo hình như tai thỏ) để cài trâm lên ước phát (1 mảnh vải hoặc búi tóc có trang sức ngọc hoặc kim loại), buộc phần dưới của hợp phát rồi để thả 2 đầu ách ti (扼臂) (lụa buộc kết) xuống. Cùng với châu xuyến và san hô (đã tạo thành hình giống đinh ba) thả 2 đầu song song ách ti
Thúc phát của Bé gái (chưa cập kê) tạo kiểu nha đầu (dài dọc bên tai)để thả 1 phần tóc sau gáy.Khi được tuyển vào cung đình vẫn để nha đầu.Gia nhân kết 1 búi to phía trước (gần như tranh Boxer Codex). Thị nữ cung đình sau tập sự búi hình thỏ. Nữ quan, quý tộc búi ước phát cài trâm
Phụ nữ, đàn ông tùy địa vị (đinh tự cân, bao đính cân, trúc quan), tuổi tác (bức cân, bát tiên cân)sẽ dùng khăn phù hợp theo điển lệ. Quân đội triều đình trước khi đội các loại lạp thì phải đeo trách (mao kê cân) coi như tiện phục
•Thời Nguyễn: bé gái kết nha đầu, bé trai đeo khăn ngũ sắc trùm kín tai.
Đàn bà phía nam sông Gianh kết tóc cài trâm, phụ nữ có chồng khi ra ngoài trùm thêm khăn trắng. Hôn lễ thì kết kim ước phát. Đàn ông thường búi tóc, búi tó to được cho là đẹp. Khăn là một mảnh vải gồm 12, 13 vuông vải bằng nhiễu hay lượt khâu lại thật dài dùng quấn quanh đầu, giữ búi tóc cho chặt. Người đội khăn quấn năm hay bảy vòng. Số năm tượng trưng cho ngũ thường và số bảy là bảy vía của người đàn ông. Thế kỷ 20 ta chế khăn đóng sẵn, gọi là khăn đóng hay khăn xếp
Khăn đàn ông thì chỗ chân tóc trên trán có thể xếp thành dạng chữ "nhất" (Hán Tự: 一) hay chữ "nhân" (人)[2] với nếp trái đè lên nếp phải[8] tạo bằng hai vòng quấn đầu tiên.
Đàn bà Bắc Bộ cuộn tóc vào trong khăn rồi quấn thành một vòng quanh đầu.[1] Hình dáng búi tó thông tục gọi là "búi tó củ hành" hay "búi tó củ kiệu".[9] Phụ nữ có chồng khi ra ngoài trùm thêm khăn đen mỏ quạ.
Người Việt còn dùng nhiều loại nón như nón ba tầm, nón ngựa, nón cụ
Sách Giao Châu ký của Trung Hoa thì kể rằng Bà Triệu (thế kỷ thứ 3) chân đi guốc bằng ngà voi.
Người nông thôn thường đi chân đất. Khi có việc thì mới xỏ guốc bằng gỗ hay gộc tre, buộc quai dọc tết bằng dây mây, sau mới dùng quai ngang bằng da. Guốc phụ nữ đẽo thon hơn, sơn đen có hoa văn.Guốc đàn ông to bản, tục gọi là guốc xuồng. Gỗ thường để mộc nguyên màu không sơn phết nên gọi là guốc mộc[10]
Ở thành thị đàn ông lẫn đàn bà còn dùng lí (履) (dép đơn giản nhất chỉ là một lớp da trâu, có khi đan bằng sơ dừa hay bằng cói, không có đế).Người xỏ ngón chân vào lỗ khuyết ở đằng mũi. Ở mu bàn chân có thêm một quai thẳng ngang như chữ "nhất" nên gọi là dép một.[4]
Sang hơn thì đàn bà đi lí đóng bằng bốn năm lớp da trâu. Đầu mũi lí vót nhọn và dùng đanh tre uốn cao vồng lên che hẳn đầu ngón chân, xỏ ngón chân thứ hai[11] vào vòng bằng da ở đằng mũi.Vì loại lí này nặng nên không thể đi nhanh[4]
•Thời Lê: ca nương, hoa nương, tân nương, quý tộc dùng tích (潟) (loại hài vếch lên có hoa văn) khi lễ
•Thời Nguyễn, Tân nương (Bắc bộ) xỏ guốc cong có 2 đế cao vếch lên (tựa như tích).Phía nam sông Gianh, tân nương xỏ hài (鞋) đầu nhọn
Nữ quý tộc xỏ hài vếch nhọn, cung nhân xỏ guốc sơn son thếp vàng khi Công phục. Nữ quý tộc xỏ hài đế cao (thon hơn của nam) khi tiện phục.
Đàn ông xỏ hài Gia Định. Một đặc danh nữa là dép da Chi Long, gót cao 2–3 cm, mũi ôm lấy mu bàn chân và chạy bọc quành ra đến gót, dép sơn đen hoặc đỏ[12], mặc khi công phục. Hài mõm ếch khi tiện phục
Tế lễ Thời Nguyễn, dân gian dùng áo thụng, đội phong cân.
Tang lễ dùng vải sô trắng, nam thắt khăn trắng chống trượng đi đầu. Nữ chùm mền trắng hình dạng theo tang chế.
Lễ phục cung đình có quy chế nghiêm ngặt.
Văn quan dùng bì ngoa mũi tròn, võ quan dùng bì ngoa mũi nhọn
Nữ nhân hoàng tộc dùng phụng tích khi lễ phục
Áo dài được cách tân dựa theo áo lập lĩnh (ngũ thân) tay chẽn. Thập niên 1930 họa sĩ Cát Tường trong nhóm Tự lực Văn đoàn đã cách tân áo dài tân thời theo hướng tây hóa.
Áo dài trắng đã trở thành trang phục cho học sinh trung học ở Việt Nam. Một số nữ nhân viên, giáo viên, hướng dẫn viên du lịch cũng mặc áo dài khi làm việc.